1. Tử viết: “Càn Khôn, Kỳ dịch chi môn da? Càn dương vật dã, Khôn âm vật
dã. Âm dương hợp đức nhi cương nhu hữu thể, dĩ thể thiên địa chi soạn,
dĩ thông thần minh chi đức”
Dịch: Thầy (Khổng) nói: “Càn, Khôn là cửa của Dịch chăng? Còn đại biểu
những vật thuộc về dương, Khôn đại biểu những vật thuộc về âm. Đức (tính
cách) của âm dương hợp với nhau mà hào dương và hào nhu mới có thực
thể, nhân đó mà suy trắc được công việc của trời đất và thông cảm được
đức của thần minh!”
2. Kỳ xưng danh dã tạp nhi bất việt. Ư kê kỳ loại, kỳ suy thế chi ý da?
Dịch: Tên của các quẻ tuy lộn xộn nhưng ý nghĩa (?) không trật ra ngoài
(sự biến hoà của âm dương) khi xét về lời đoán của mỗi quẻ thì Dịch là
mối suy tư (của thánh nhân) trong một đời loạn chăng? (tức của Văn vương
ở thời vua Trụ).
Chú thích: tiết nầy rất tối nghĩa các sách đều chấm câu ở sau chữ
“việt”. Duy Phan Bội Châu là cho câu đi liền tới chữ “loại” rồi mới
chấm. Chữ “loại” mỗi nhà hiểu một khác: Phan Bội Châu không dịch, Chu HI
không giảng, J. Legge hiểu là “bản chất và cách thức” của các lời đoán.
R. Wilhelm hiểu là hoàn cảnh.
3. Phù Dịch chương vãng nhi sát lai, nhi vi hiển (1) triển u; khai nhi (2) đáng danh biện vật, chính ngôn, đoán từ, tắc bị hĩ.
Dịch: Dịch làm rõ cái đã qua mà xét cái sắp tới, làm sáng tỏ cái kín
đáo, mở cái bí mật. (Văn Vương) khai triển hình tượng (hay ý nghĩa),
phân biệt mọi vật đúng với tên của chúng; ngôn được chính, lời đoán được
định rồi, thế là (Kinh Dịch) đầy đủ.
Chú thích: (1) Ba chữ “nhi vi hiển”, ngở là lầm; “vi hiển nhi (triển u)” thì phải hơn.
(2) chữ “nhi” ở đây cũng ngờ là lầm.
Vì hai chỗ đáng ngờ như vậy nên tiết này khó hiểu, mà Phan Bội Châu
không dịch. Chúng tôi dịch theo J. Legge mà J.Legge cũng chỉ đoán phỏng
thôi.
4. Kỳ xưng danh dã tiểu, kỳ thủ loại dã đại, kỳ chỉ viễn, kỳ từ văn, kỳ
ngôn khúc nhi trúng, kỳ sự tứ nhi ẩn, nhân nhị dĩ tế dân hạnh, dĩ minh
thất đắc chi báo.
Dịch: Về sự đặt tên trong Dịch thì tới cả những vật rất nhỏ (hay tầm
thường), mà bao gồm cả những loại rất lớn (nhu thiên địa, âm dương, vũ
trụ)(1), ý nghĩa của Dịch sâu xa mà lời thì văn vẻ, lời (giảng) ngoắt
ngoéo mà đúng sự việc, trình bày rõ ràng mà thâm điểu, u ẩn, nhân lòng
dân có điều nghi ngờ (nhị) mà giúp dân về đức hạnh, (bằng cách) tỏ cho
dân thấy rõ sự báo ứng về việc hỏng hay được (tức hậu quả của hành động
tốt hay xấu).
Chú thích: (1) Câu đầu này R. Wilhelm dịch là: Những tên (để gọi các
quẻ) có vẻ không quan trọng nhưng khả năng áp dụng thì lớn; J. Legge
dịch là: Tên gọi chỉ là vấn đề nhỏ mọn, nhưng các loại sự vật chứa trong
những tên đó thì rộng lớn.
(Chương này tối nghĩa, có chỗ chép lầm, mà ý nghĩa cũng không có gì sâu
sắc, chỉ là xét chung về bản thể, công dụng của Kinh Dịch).
No comments:
Post a Comment